1. Giới thiệu
Mặc dù nỗ lực hợp tác liên tục giữa các nước thành viên ASEAN ( Hiệp hội các nước Đông Nam Á ) và những đóng góp của ngành du lịch rất đáng kể làm trong khu vực thì vẫn có rất ít nghiên cứu về sự hợp tác du lịch ở các nước khối ASEAN . Phần lớn các nghiên cứu hiện có liên quan đến các thỏa thuận hợp tác kinh tế trong khuôn khổ chung của ASEAN như Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) . Các nhà nghiên cứu đã bỏ qua sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể.
ASEAN được thành lập như một tổ chức để duy trì hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á bằng cách tổ chức diễn đàn thảo luận và giải quyết các vấn đề có khả năng gây mất ổn định khu vực. Năm nước chính thức thành lập Hiệp hội vào ngày 08 tháng 8 năm 1967 : Indonesia, Malaysia , Philippines, Singapore và Thái Lan. Brunei tham gia vào ngày 08 tháng 1 năm 1984 trở thành 6 nước, gọi là ASEAN -6.
Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và kết thúc của Chiến tranh Lạnh , các nước ASEAN đã bắt đầu kết nạp thêm các nước láng giềng như Việt Nam, Campuchia và Lào. Những quốc gia này đã bắt đầu thực hiện các cải cách kinh tế theo hướng thị trường kể từ đầu những năm 1980, điều này mang đến các cơ hội thương mại và đầu tư cũng như có dấu hiệu tốt rằng nhóm khu vực ASEAN cần phải được mở rộng để duy trì mối quan hệ với nhau.
Động lực để tăng tốc mở rộng khối ASEAN đó là sự cần thiết tăng cường tiếng nói của khu vực trong các cơ quan thương mại quốc tế như APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương), Tổ chức Thương mại Thế giới, và trong cuộc đàm phán với Liên minh châu Âu (Tân, 2003). Từ năm 1995 đến năm 1997, Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (CLMV) gia nhập ASEAN. Đây là những thành viên mới có nền kinh tế kém phát triển.
Mục tiêu lâu dài của ASEAN là thành lập một khu vực thương mại tự do ở Đông Nam Á (Yeh, 2002). Trong khi điểm nhấn của kinh tế ASEANs tập trung nhất vào thương mại hàng hóa, khoáng chất và nhiên liệu thì du lịch đã phát triển trở thành một yếu tố quan trọng, phần lớn do sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành này trong khu vực (Timothy, 2003).
Du lịch ASEAN được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng. Trong năm 2008, khu vực này đón 65,5 triệu du khách, tăng gần gấp đôi so với năm 2002 (33 triệu lượt) (ASEAN, 2009a; UNWTO, 2003). Theo UNWTO, khu vực Đông Nam Á dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 6,3% từ năm 1995 đến năm 2020. Đến năm 2020, con số này dự kiến đạt đến 136 triệu mỗi năm (UNWTO, 2000) – cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của ngành du lịch và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ASEAN.
Bảng 1 cho thấy sự đóng góp của lữ hành và du lịch vào GDP các nước thành viên ASEAN. Trong khi tăng trưởng GDP khu vực thực sự của ngành du lịch giai đoạn 2009-2010 là - 2.1 % (có lẽ liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-09 ), du lịch đã có những đóng góp đáng kể cho kinh tế khu vực ASEAN , 11% GDP.
Mỗi hình thức và hoạt động của nhóm quốc gia trong một bối cảnh cụ thể đã có những hỗ trợ và hạn chế sự thành công tổ chức . Thông thường, lý thuyết hiện có không thể giải thích đầy đủ các tương tác khác nhau trong các tổ chức, ảnh hưởng tương đối của họ trên kết quả. Lấy du lịch ASEAN làm tình huống nghiên cứu, các tác giả đã xác định đặc điểm độc đáo của sự hợp tác này. Những kết quả phát hiện được không chỉ giúp mở rộng các phạm vi lý thuyết hiện có và đóng góp vào cho khoa học cũng như những đóng góp vào chính sách du lịch ASEAN để phát triển khu vực.
Nghiên cứu này kiểm chứng mức độ thay đổi của ASEAN kể từ khi thành lập của Hiệp định Du lịch ASEAN vào năm 2002 và kế hoạch hành động hợp tác Lộ trình hội nhập của ngành du lịch trong năm 2004. Điều quan trọng là cả nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đều nhận ra lộ trình này cần những điều kiện hỗ trợ và những cản trở sự tiến bộ. Bài nghiên cứu này đánh giá mức độ tiến độ và đưa ra khung mới mà bóc tách các yếu tố hạn chế và tạo thuận lợi cho việc hợp tác.
Ba mục tiêu chính của bài nghiên cứu:
1. Để cung cấp một đánh giá tổng thể các tiến bộ đạt được trong hợp tác du lịch ASEAN .
2. Để xác định các yếu tố tạo điều kiện và cản trở sự hợp tác du lịch ASEAN.
3. Để cung cấp các khuyến nghị chính sách nhằm tăng cường quá trình hợp tác ASEAN để phát triển du lịch trong khu vực.
2. Nghiên cứu tình huống
Để xác định các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác ASEAN trong ngành du lịch và các rào cản thành công, các tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống. Nghiên cứu tình huống được coi là thích hợp cho việc kiểm tra các sự kiện đương đại khi các hành vi có liên quan không thể thực hiện được. Cách tiếp cận này liên quan đến các bằng chứng thu thập được từ quan sát trực tiếp các sự kiện và cuộc phỏng vấn người liên quan ( Yin , 2003). Các nghiên cứu hiện nay liên quan đến hiện tượng xã hội hiện đại mà các nhà nghiên cứu không thể tiếp cận được thì họ thường chọn cách dùng tình huống nghiên cứu.
Các nguồn chứng cứ được sử dụng trong nghiên cứu này, bao gồm cả tài liệu chính thức từ các nước ASEAN , các ấn phẩm không chính thức ( ví dụ như các tạp chí học thuật, sách, báo, tạp chí thương mại ), và các cuộc phỏng vấn với các bên liên quan. Việc sử dụng nhiều nguồn dữ liệu cho phép đạt được tam giác dữ liệu nên tăng cường độ tin cậy và độ độ lập của kết quả (Lincoln và Guba , 1985).
Các cuộc phỏng vấn sâu đã được tiến hành vào tháng một tới tháng ba năm 2005 và tháng một-tháng hai năm 2006. Tổng cộng có 22 cuộc phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn qua điện thoại và 2 câu trả lời qua email. 3/21 người tham gia nghiên cứu đã được phỏng vấn hai lần. 13/21 người tham gia là các quan chức chính phủ cấp cao, đại diện cho 9/10 nước thành viên ASEAN. 8 đại diện tổ chức quốc tế khác (ví dụ như Ban Thư ký ASEAN , Ngân hàng Phát triển Châu Á ), các hiệp hội ngành (như Hiệp hội Du lịch ASEAN; Hiệp hội Du lịch Châu Á Thái Bình Dương), và các học viện hoặc tư vấn (ví dụ như Viện Nghiên cứu Đông Nam Á , Trung tâm nghiên cứu hợp tác du lịch bền vững ) .
Tất cả các dữ liệu được đưa vào phần mềm NVivo 2.0 để phân tích. Phần mềm NVivo là công cụ quản lý dữ liệu và phân tích mà không chỉ tạo điều kiện mã hóa dữ liệu mà còn tìm kiếm và mô hình hóa dữ liệu, điều này cho phép các nhà nghiên cứu xác nhận và khám phá mối quan hệ mới trong dữ liệu. Điều cơ bản là ý tưởng thể hiện trong các dữ liệu được chia thành “đơn vị” của các khái niệm và phần mềm minh họa mối quan hệ giữa các khái niệm theo bảng hoặc các định dạng đồ họa.
Nguyễn Lê Giang Thiên dịch từ “A framework for analyzing intergovernmental collaboration – the case of ASEAN tourism, Emma P.Y.Wong, Nina Mistilis, Larry Dwyer.