Như những bài trước trong chuỗi bài viết về các môn học chuyển giao của Đại học Penn State. Kì này, người viết cung cấp cho các bạn sinh viên những xu hướng và cơ hội nghề nghiệp đối với lĩnh vực quản trị sản xuất và chuỗi cung ứng.
XU HƯỚNG MỚI TRONG QUẢN TRỊ SẢN XUẤT
Ứng dụng công nghệ trong quản trị sản xuất
Việc ứng dụng công nghệ giúp cho quá trình quản trị sản xuất và chuỗi cung ứng trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn. MPR - hệ thống hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu giúp doanh nghiệp tích hợp thông tin giữa các bộ phận để lập lịch trình về nguyên vật liệu dễ dàng hơn. Đầu vào của MPR gồm có 3 thành tố chính:
(1) MPS - Master planning schedule hay gọi nôm na là bản kế hoạch sản xuất. Bản này được hình thành từ hoạt động hoạch định tổng hợp (Aggregate planning - AP) của doanh nghiệp. MPS cũng giống như AP đều tập trung trả lời hai câu hỏi (a) sản xuất sản phẩm gì, (b) số lượng bao nhiêu. Tuy nhiên, AP dành cho một nhóm sản phẩm và kế hoạch tương đối dài hạn như hằng quí, trong khi MPS chỉ rõ việc sản xuất một sản phẩm cụ thể và thường được chia nhỏ thành tháng hoặc tuần.
(2) BOM - Bill of Material hay bản nguyên vật liệu. Trong BOM chủ yếu trình bày các loại nguyên vật liệu cần dùng để sản xuất sản phẩm. Cơ sở của BOM chính là bản mô tả sản phẩm từ bộ phận R&D.
(3) IRF - Inventory record file - bản thống kê tồn kho. Trong bản thống kê này, người đọc có thể thấy thông tin về tồn kho đầu kì (Inventory on hand), đây là cơ sở để tính toán nguyên vật liệu cần mua thêm để phục vụ cho quá trình sản xuất.
Sau khi có đầy đủ ba thông tin trên, bộ phận sản xuất sẽ tiến hành nhập vào phần mềm MRP, ứng dụng này sẽ tiến hành tính toán và lập nên các bản báo cáo, trong đó cung cấp thông tin chi tiết về lịch trình đặt mua nguyên vật liệu. Ví dụ: ngày 23.4 sẽ tiến hành mua nguyên vật liệu A, sau khi đặt hàng 2 ngày sẽ về đến kho,...
Chuỗi cung ứng trên phạm vi toàn cầu
Mỗi quốc gia có một ưu thế khác nhau trong việc sản xuất sản phẩm. Do vậy, hiện nay cùng với xu hướng outsourcing (thuê ngoài) các doanh nghiệp đang ngày càng tham gia tích cực hơn vào việc quản trị chuỗi cung ứng trên phạm vi toàn cầu. Chẳng hạn để sản xuất một chiếc máy tính, Dell phải thực hiện quản trị chuỗi cung ứng liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau như RAM được sản xuất ở Nhật, CARD mạng được sản xuất ở Đài Loan, ổ cứng được làm ở Malaysia hay chíp được sản xuất ở Hong Kong,...Tất cả các bộ phận từ khắp nơi trên thế giới sẽ được qui tụ về nhà máy ở Austin, Texas để lắp ráp thành sản phẩm cuối cùng.
Vấn đề quan trọng ở đây là việc, doanh nghiệp phải quản trị con đường dịch chuyển của những bộ phận này để chi phí ở mức thấp nhất trong khi vẫn đảm bảo được việc khai thác lợi thế cạnh tranh ở mỗi vùng khác nhau.
Sử dụng nguyên liệu xanh và quan tâm đến môi trường sống
Có trách nhiệm với môi trường đang ngày càng trở nên cấp thiết trong kinh doanh và rất nhiều công ty hiện này đang tìm kiếm các chuỗi cung ứng có thể cung cấp nguyên liệu xanh. Vấn đề quan trọng ở đây là làm thế nào các doanh nghiệp có thể thương lượng được với nhà cung cấp để vừa tiết kiệm chi phí vừa đem lại lợi ích cho môi trường mà không phải đánh đổi. Nếu làm được điều này, kết quả tài chính của công ty có thể được cải thiện thong qua việc tiết kiệm chi phí và gia tăng doanh số bán. Điều này xuất phát từ việc, nguồn lực xanh không chỉ là việc tìm kiếm các dây chuyền công nghệ thân thiện với môi trường hay tăng hoặc giảm những nguyên vật liệu tái chế, nó còn giúp giảm chi phí bằng nhiều cách như tăng chất lượng sản phẩm, giảm hao phí hay giảm tần suất sử dụng nguyên liệu.
Sản xuất tinh gọn nhằm tiết kiệm chi phí
Thật ra, đây không phải là một xu hướng mới trong quản trị sản xuất bởi nó đã xuất hiện vào những năm 1970. Tuy nhiên, hiện nay có rất ít công ty ở Việt Nam ứng dụng thành công triết lí này. Sản xuất tinh gọn dựa trên một số các triết lí nhằm loại bỏ các hao phí trong quá trình sản xuất - chính là các hoạt động không tạo ra giá trị cho khách hàng và mô hình chuẩn được các công ty ngày nay học tập xuất phát từ Toyota - một trong các công ty sản xuất ô tô lớn nhất thế giới.
Một trong những nguyên tắc chính của sản xuất tinh gọn là JIT - Just in time hay sản xuất đúng lúc, có nghĩa là sản phẩm sẽ không được sản xuất cho đến khi nhu cầu được phát sinh, doanh nghiệp có thể làm được điều này thông qua sử dụng hệ thống kéo (Pull system) thay vì hệ thống đẩy (Push system) như trước đây. Hệ thống kéo, trong đó, thành phần đầu tiên là khách hàng, khi họ phát sinh nhu cầu và đặt hàng từ các trung gian phân phối, các trung gian này sẽ đặt hàng lại doanh nghiệp, doanh nghiệp đặt hàng nguyên vật liệu từ nhà sản xuất. Các bộ phận trong chuỗi cung ứng này có thể liên kết với nhau thông qua thẻ Kanban - công cụ giúp bộ phận ở sau thông báo cho bộ phận trước đó về loại sản phẩm, số lượng sản phẩm mà họ đã lấy đi.
Ngoài ra, đối với doanh nghiệp sản xuất, việc chuyển từ cách thức bố trí sản xuất theo trung tâm làm việc (workcenter) sang hình thức tổ chế tạo (manufacturing cell) cũng giúp giảm chi phí dịch chuyển, đồng thời đảm bảo được yếu tố đa dạng hóa sản phẩm.
CƠ HỘI NGHỀ NGHIỆP ĐẾN TỪ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ SẢN XUẤT VÀ CHUỖI CUNG ỨNG
Cũng giống các môn học khác chuyển giao từ chương trình Penn State của Đại học Duy Tân, môn học Quản trị sản xuất và chuối cung ứng cũng mang lại các cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên. Tiếp cận với môn học này, sinh viên có thể đảm nhận các công việc trong tổ chức như:
- Quản lí phân xưởng: Quản lí lực lượng lao động và nguồn lực tại phân xưởng như nguyên vật liệu, thiết bị máy móc,...cần thiết cho việc sản xuất
- Quản trị trung tâm tương tác với khách hàng (call-center): Quản lí việc tiếp nhận các cuộc gọi từ khách hàng.
- Quản lí thu mua: Quản lí các khía cạnh của hoạt động thu mua diễn ra hằng ngày ở doanh nghiệp.
- Quản trị chất lượng: Ứng dung công nghệ, phương pháp thống kê để đảm bảo chất lượng cho sản phẩm
- Quản trị dự án: Lập kế hoạch, quản trị các hoạt động của nhân viên để đảm bảo tiến độ hoàn thành dự án.
Xin bàn kĩ hơn một chút về nghề quản trị chuỗi cung ứng. Đây được coi là nghề tương đối mới nhưng đang mở ra nhiều triển vọng nghề nghiệp trong tương lai. Theo các chuyên gia, Việt Nam sẽ trở thành một trong những quốc gia có hoạt động mạnh mẽ về chuỗi cung ứng trong thời gian đến cùng với xu hướng hội nhập kinh tế. Hiện nay, vị trí này đang nằm trong tay Trung Quốc nhưng đang dịch chuyển dần sang Việt Nam do môi trường kinh doanh được cải thiện thông thoáng và chi phí nhân công cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực. Sinh viên ra trường có thể làm việc ở các lĩnh vực quản trị chuỗi cung ứng như nhân viên dự báo nguồn hàng, hoạch định và điều phối nguồn nguyên vật liệu, lập kế hoạch sản xuất, quản trị tồn kho, quản trị dự án, kho bãi, vận chuyển hàng hóa, xuất nhập khẩu, mua hàng .v.v.
Hiện nay, đa phần giáo trình đang lưu hành chỉ trình bày một trong hai mảng quản trị sản xuất và quản trị chuỗi cung ứng, nhưng Đại học Duy Tân tiếp cận cả hai hoạt động trên. Thế nên sinh viên sẽ có góc nhìn tổng thể và đầy đủ hơn vì đây là hai hoạt động không thể tách rời trong doanh nghiệp.
Huỳnh Linh Lan