SỰ XUẤT HIỆN CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI BABA NYONYA
Ở MALACCA THỜI TRUNG ĐẠI
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Thảo
Trong lịch sử, người Trung Quốc đến Malaysia diễn ra trong nhiều giai đoạn và do nhiều nguyên nhân. Lịch sử chính thức ghi nhận về sự xuất hiện các khu định cư của người Trung Quốc tại Malacca vào những năm 1409. Trong lần thám hiểm thứ ba của Trịnh Hòa (1409 - 1411) và thứ bảy (1431 – 1433), ông đã mang theo một cấp dưới tên là Fei Xin. Fei Xin viết về người bản xứ Malacca và đề cập rằng: “có những người da sáng màu trong số họ có thể có nguồn gốc từ Trung Quốc” [4].
Trong biên sử Malaysia có viết khoảng đầu thế kỷ XV có một cuộc hôn ước khá thú vị giữa Sultan Mansur Shah (1459 – 1477) của Malacca với công chúa Hang Li Po. Có lẽ Vua Minh Anh Tông (1457 - 1464) muốn gia tăng hơn nữa ảnh hưởng của Trung Quốc ở hải cảng quốc tế nên đã gã con gái mình. Ngoài ra, 500 nam thanh niên và nữ tỳ được Hoàng đế Trung Hoa gửi đến để phục dịch công chúa ở Malacca. Đội hộ tống được sinh sống tại một cái đồi và ngày nay được biết đến với cái tên Bukit China [2]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình Chee Beng Tan cho rằng câu chuyện này lại không được tìm thấy ở bất cứ văn bản nào của Trung Quốc. Nhưng ông giải thích rằng có lẽ Sultan Mansur Shah đã cưới một phụ nữ Trung Quốc và đó như là món quà của Hoàng đế Trung Quốc. Còn việc các người hầu có thể là sự phóng đại để thể hiện uy danh của Hoàng đế [4].
Tome Pires đã có một sự giải thích hơi khác về cuộc hôn nhân giữa Sultan Malacca với người phụ nữ Trung Quốc. Trong tác phẩm của ông có đề cập đến việc Chaquem Daraxa (có lẽ Iskandar Shah[1]) đã đi sứ sang Trung Quốc. Hoàng đế Trung Hoa lệnh cho một vị quan của Trung Quốc trở về cùng Chaquem Daraxa và vị quan này có một người con gái rất đẹp – đó là người mà vua Malacca kết hôn. Tuy nhiên, cô ấy không phải là người phụ nữ danh giá có địa vị xã hội. Cô ấy sinh cho Sultan một đứa con trai tên là Raja Putih [3]. Trong khi đó, bằng chứng khác cũng được ghi lại là sự kiện đám cưới của Quốc vương Malacca với một phụ nữ Trung Quốc được đăng bởi Braz De Albuquerque. Ông cho rằng Quốc vương Malacca với tước hiệu thứ ba là Muhammad Shah (1425-1444) kết hôn với con gái của một thuyền trưởng Trung Quốc [4].
Như vậy, có 2 ghi chép của người Bồ Đào Nha mô tả về cuộc hôn nhân giữa người đứng đầu Malacca và người phụ nữ Trung Quốc củng cố thêm bằng chứng về câu chuyện này có thể có thật lịch sử Malaysia. Đây cũng là bằng chứng cho thấy rằng kể từ thời Vương quốc Malacca, đã có người Trung Quốc định cư ở Malacca.
Những chứng cứ rõ ràng hơn về khu định cư của người Hoa tại Malacca vào thời điểm Bồ Đào Nha chinh phục Malacca (1511 - 1641) đã có một ngôi làng Trung Quốc được xây dựng. Thông tin về trường hợp này được ghi lại bởi De Eredia người này sinh ra ở Malacca năm 1563 và định cư ở Malacca trong 40 năm. De Eredia có nhắc đến một Campong China (làng của người Hoa) có người Hoa sinh sống ở đó. Làng này cũng được chỉ ra trong bản đồ lãnh thổ Malacca của De Eredia. Trong các ghi chép của Trung Quốc cũng có đề cập đến những bài viết của De Eredia [4].
Qua những dẫn liệu trên, chúng tôi có thể khẳng định cho sự hình thành cộng đồng người Baba Nyonya sinh sống tại Malacca từ thế kỷ XVI cho đến nay. Những người định cư Trung Quốc đầu tiên đến Malaysia trong đó có Malacca được tạo nên bởi các thương nhân đến đây hoạt động thương mại. Chúng ta có thể khẳng định rằng quan hệ thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập và tạo ra một dân tộc mới với tên gọi là Baba Nyonya.
Một bằng chứng nữa chứng minh vào đầu thế kỷ XVII có sự định cư của người Trung Quốc là dựa trên vết tích của ngôi chùa Cheng Hong Teng tại khu vực China town ngày nay. Ngôi chùa này được cho rằng xây dựng vào những năm 1600 bởi người thủ lĩnh Tay Kie Ki có tên gọi khác là Tay Hong Yong [7]. Đây là ngôi chùa cổ nhất của người Trung Quốc ở Malacca được xây dựng với một đích tôn giáo và cũng là nơi cho những Bang Hội thảo luận các vấn đề mà họ gặp phải.
Đến thế kỷ XVIII dưới sự thống trị của Hà Lan, đã có khoảng 2000 người Hoa. Từ một ghi chép của Hà Lan năm 1756, nói rằng “có một số người Hoa phục vụ trong quân đội của Hà Lan”. Những năm cuối dưới sự thống trị của Hà Lan ở Malacca, số lượng người Hoa giảm đi nhiều người di cư qua khu định cư dưới sự bảo trợ của Anh như Penang và Singapore. Vì vậy, người Hoa ở Malacca giảm từ 2161 (1750) xuống còn 1390 (1766) và 1006 (1817). Tuy nhiên, khi Malacca dưới sự bảo hộ của Anh[2], dân số Trung Quốc ở vùng eo biển và Malaysia lại có xu hướng tăng trở lại. Người Anh khuyến khích người Hoa và người Ấn Độ nhập cư vì điều này sẽ mang lại sự phát triển kinh tế và nó cũng mang lại lợi nhuận cho người Anh. Như vậy trong năm 1826 dân số người Hoa ở Malacca tăng lên 4.125, năm 1860 là 10.039 người và 1911 và 1913 là 36.094 và 65.302 [4].
Việc kết hôn giữa người Hoa và người bản địa dĩ nhiên là hữu ích cho những người Hoa định cư trong giai đoạn đầu. Những người vợ bản địa sẽ rất có ích cho việc buôn bán và quản việc nhà trong khi những người chồng trở lại Trung Quốc lấy hàng hóa. Trong khoảng thời gian trước, những đứa con trai có mẹ là người Malay sẽ được gởi về Trung Quốc cho giáo dục trong khi những bé gái sẽ phải ở nhà. Tuy nhiên, việc gửi con trai về Trung Quốc học chỉ có ở những gia đình thương gia Hoa giàu có và đây là một thiểu số trong những người Hoa định cư sớm ở Malacca [4].
Làm thế nào để các cuộc hôn nhân giữa người theo Islam giáo và người không theo Islam giáo có thể diễn ra? Một cách mà người đàn ông Hoa có thể chọn lựa là sẽ theo Islam giáo và trở thành một Muslim. Trong trường hợp này, con cái họ và thậm chí cả họ bị đồng hóa vào xã hội Malay. Hoặc những người đàn ông Hoa trên danh nghĩa trở thành các Muslim để đạt được mục đích là cưới các phụ nữ bản địa. Sau khi cưới thì những người đàn ông Hoa này sẽ quay lại theo các tôn giáo tín ngưỡng của mình. Những đứa con của họ được nuôi dưỡng và lớn lên ở Trung Quốc, các bà vợ Malay tự nguyện hoặc bị thuyết phục theo văn hóa Trung Quốc và từ bỏ Islam giáo. Trong quá khứ, những người Malay có sự khoan dung khác nhau về tôn giáo trong các cuộc hôn nhân khác chủng nhưng hiện nay thì điều này không cho phép. Nếu một người muốn kết hôn với phụ nữ Malay thì bắt buộc anh ta phải theo Islam giáo. Hiện nay ở Malaysia, Islam giáo đã trở thành biểu tượng của bản sắc và sự thống nhất của người Malay.
Sự xuất hiện của những đứa trẻ lai này trong xã hội không diễn ra một cách đột ngột mà đó là sự tương tác chặt chẽ giữa thương nhân người Hoa và cư dân địa phương thông qua các cuộc hôn nhân. Loại tương tác này là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa người Hoa với văn hóa của người bản địa. Thời gian trôi đi chắc chắn vào khoảng thế kỷ XVIII, một nhóm người Hoa lai được sinh ra và họ thích nghi với môi trường Malay. Họ nói tiếng Malay và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa địa phương thông qua một quá trình thích nghi tự nhiên không có sự ép buộc để đồng hóa văn hóa. Có thể nhìn thấy trên các khía cạnh như ẩm thực, ngôn ngữ, quần áo, trang sức, ca hát, và hệ thống tín ngưỡng của họ.
Tài liệu tham khảo
[1] : Vị vua thứ 2 của Malacca, con trai của Parameswara
[2] : theo Hiệp ước giữa Anh – Hà Lan, Anh chính thức cai quản Malaysia bao gồm Malacca từ năm 1824
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: